Chương 8 mang chúng ta đến với các
“bí quyết thu phục lòng người” bằng các lý thuyết động viên và thúc đẩy nhân
viên. Trong cuộc sống con người có rất nhiều nhu cầu, chính những nhu cầu này động
viên chúng ta làm việc và nỗ lực phấn đấu. Chương này giúp các nhà lãnh đạo
phân tích nhu cầu của con người dựa trên các học thuyết khác nhau, qua đó nhà
lãnh đạo có thể ứng dụng để động viên nhân viên của mình.
Nghiên cứu động cơ thúc đẩy giúp các nhà lãnh đạo hiểu điều gì thúc đẩy
con người khởi xướng hành động, điều gì ảnh hưởng đến việc lựa chọn hành động của
họ và tại sao họ kiên trì theo đuổi hành động của mình. Trong mô hình đơn
giản của động cơ, các nhu cầu của con người sẽ chuyển thành áp lực thúc đẩy các
hành vi cụ thể. Tới khi các hành vi thực hiện thành công thì họ cũng được thỏa
mãn nghĩa là họ đã nhận được một phần thưởng hay đền đáp. Sự tưởng thưởng cũng cho
con người biết rằng hành vi là thích hợp hay không và có thể sử dụng lại trong
tương lai.
Có hai loại phần thưởng: phần thưởng
bên trong và phần thưởng bên ngoài. Phần thưởng bên trong là sự thỏa mãn bên
trong mà người ta nhận được trong quá trình thực hiện công việc cụ thể. Còn phần
thưởng bên ngoài được trao hay nhận được từ người khác bao gồm sự thăng chức và
tăng lương. Mặc dù phần thưởng bên ngoài rất quan trọng nhưng nhà lãnh đạo vẫn
phải nỗ lực để làm cho những người phục tùng có khả năng đạt được những phần
thưởng bên trong.
Những lý thuyết về nội dung của động
cơ thúc đẩy nhấn mạnh đến các nhu cầu, và chúng được xem là yếu tố tạo ra động
lực cho con người. Từ việc hiểu biết nhu cầu của nhân viên mà nhà lãnh đạo xây
dựng hệ thống phần thưởng nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ, từ đó hướng sự nỗ lực của
họ đến việc đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Từ thập kỷ 50 của thế kỷ 20,
các lý thuyết về động viên đã xuất hiện khá nhiều. Mặc dù các lý thuyết này bị
công kích dữ dội và bị đặt nhiều câu hỏi. Đó là các lý thuyết bậc thang nhu cầu
của Maslow, lý thuyết hai nhân tố, thuyết nhu cầu đạt được…
Abraham Maslow là người đề ra lý
thuyết bậc thang nhu cầu. Ông cho rằng con người có 5 nhu cầu cơ bản, được sắp
xếp theo thứ bậc: Nhu cầu sinh lý (ăn, mặc, ở, đi lại …), Nhu cầu an toàn (được
xã hội bảo vệ, không bị tổn thương về tinh thần lẫn thể xác), Nhu cầu xã hội (liên
quan đến tình bạn, tình yêu, được giao tiếp với mọi người), Nhu cầu được tôn trọng
(liên quan đến tự chủ, địa vị, được mọi người biết đến và chú ý), Nhu cầu tự thể
hiện mình (muốn trở thành một người theo khả năng của mình, được phát triển bản
thân). Con người được động viên để đạt được nhu cầu cao hơn sau khi nhu cầu bậc
thấp như nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn được thoả mãn. Điều này được Maslow gọi
là quá trình gia tăng hài lòng. Lý thuyết này rút ra được một điều, nhà quản lý
nếu muốn động viên ai thì cần phải biết họ đang ở bậc thang nhu cầu nào và tìm
cách thỏa mãn bằng hoặc hơn mức nhu cầu này. Nhưng em cảm thấy con người có nhiều
nhu cầu cùng một lúc chứ không phải là chỉ có một nhu cầu ở một thời điểm. Và
trong nhiều trường hợp có người vẫn muốn đảm bảo các nhu cầu bậc cao ngay cả
khi các nhu cầu bậc thấp bị đe dọa. Như trong thời kỳ chiến tranh, nhiều người lính
bị bắt, bị đánh đập hành hạ nhưng vẫn không khai ra bí mật của đồng đội mình,
cũng như nhiều người sẵn sàng chấp nhận cái chết để đổi lấy sự trung thành với Tổ
quốc.
Lý thuyết hai nhân tố do
Frederick Herzberg đưa ra. Ông cho rằng mối quan hệ của cá nhân với công việc
là mối quan hệ cơ bản và thái độ hướng đến công việc có thể xác định được sự thành
công hay thất bại của chính cá nhân đó. Theo học thuyết này, nhân tố bên trong
liên quan đến hài lòng trong công việc còn nhân tố bên ngoài dẫn đến sự bất
mãn. Học thuyết này giúp cho nhà lãnh đạo biết được các yếu tố gây ra sự bất
mãn cho nhân viên và từ đó tìm cách loại bỏ những nhân tố này. Tuy nhiên khi
các nhân tố gây bất mãn được loại bỏ thì cũng không có nghĩa là nhân viên sẽ hài
lòng. Nếu muốn động viên nhân viên, làm cho họ hài lòng trong công việc thì người
lãnh đạo cần chú trọng đến những yếu tố như sự thành đạt, sự thừa nhận, bản
thân công việc, trách nhiệm và phát triển nhân viên. Ví dụ, nhân viên sẽ cảm thấy
hài lòng với công việc khi họ được giao một công việc đúng khả năng và tính
cách của mình, có cơ hội để học tập và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. Có nhiều
nhân viên thích trải nghiệm nhiều công việc khác nhau, muốn thử sức ở nhiều
lĩnh vực, lúc này nhà lãnh đạo cần xem xét để luân chuyển công việc cho anh ta.
Đây cũng là một cách tăng động cơ thúc đẩy, giúp nhân viên hào hứng hơn trong
công việc và gắn bó hơn với tổ chức. Tuy nhiên, nên hạn chế luân chuyển và chỉ
nên luân chuyển nhân viên đến những vị trí công việc có liên quan để trau dồi
thêm kỹ năng. Bởi vì nếu một người cứ luân chuyển hết vị trí này đến vị trí
khác thì tổ chức sẽ khiến người đó thành kẻ học việc suốt đời mà không thành thạo
một việc nào cả.
Lý thuyết nhu cầu đạt được của
McClelland tập trung vào 3 nhu cầu: thành công, quyền lực và liên minh. Nhu cầu
thành tích: một người có nhu cầu thành tích thường mong muốn hoàn thành những mục
tiêu có tính thách thức bằng nỗ lực của mình, thích thành công khi cạnh tranh
và cần nhận được phản hồi về kết quả công việc của mình một cách rõ ràng. Nhu cầu
quyền lực: những người có nhu cầu quyền lực mong muốn tác động, ảnh hưởng và kiểm
soát tài nguyên, kiểm soát con người nếu có lợi cho họ. Nhu cầu xác định tư
cách: mong muốn có mối quan hệ gần gũi và thân thiện với mọi người xung quanh.
Nhu cầu xác định tư cách làm cho con người cố gắng vì tình bạn, thích hợp tác
thay vì cạnh tranh, mong muốn xây dựng các mối quan hệ dựa trên tinh thần hiểu
biết lẫn nhau. Theo em thì người có nhu cầu về thành tích cao sẽ thành công hơn
trong các nhiệm vụ, nhưng không nhất thiết sẽ trở thành một nhà lãnh đạo tốt, vì
họ chỉ quan tâm đến công việc của mình. Trong khi đó, nhu cầu về quyền lực và xác
định tư cách có liên quan chặt chẽ đến thành công của nhà lãnh đạo. Nhà lãnh đạo
làm việc tốt nhất khi có nhu cầu về quyền lực cao và nhu cầu xác định tư cách
thấp.
Em đã đọc cuốn sách “Lý lẽ của
phi lý trí” của Dan Ariely. Trong cuốn sách này, ông đã đề cập đến mối tương
quan hình chữ U ngược trong các chính sách động viên nhân viên. Ông cho rằng:
“Các chính sách khuyến khích là những con dao hai lưỡi. Khi đạt đến một ngưỡng
nhất định, nó kích thích chúng ta học tập và làm việc một cách tốt hơn. Nhưng
khi vượt qua ngưỡng đó, áp lực từ động lực được tạo ra có thể sẽ cao tới mức mà
nó làm cho người ta mất tập trung và xao nhãng khỏi công việc của mình.” Đây là
một trong những điều Dan Ariely cho là “lý lẽ” của sự phi lý trí. Em hoàn toàn
tin tưởng vào nghiên cứu này. Không phải lúc nào con người lý trí, tức là làm
theo những gì có lợi cho mình nhất. Động lực quá lớn có thể khiến nhân viên sợ
hãi và mất tập trung dẫn đến kết quả không như mong đợi. Bởi vậy, không phải cứ
treo thưởng thật cao thì nhân viên sẽ lao vào làm việc và cống hiến hết mình cho
tổ chức. Điều này một lần nữa thách thức các nhà lãnh đạo phải làm thế nào để
có thể xác định được “cái ngưỡng” mà các chính sách động viên cần đạt tới và dừng
lại.
Bên cạnh những lý thuyết động
viên thì các nhà nghiên cứu còn đưa ra thêm những lý thuyết thúc đẩy khác như:
lý thuyết ủng hộ, lý thuyết về sự kỳ vọng, lý thuyết công bằng, thuyết tăng cường,…
Chúng ta đề cập đến những lý thuyết thúc
đẩy để giải thích tại sao có sự thuyên chuyển hoặc tại sao trong cùng một tổ chức,
có người làm việc với năng suất cao có người lại không. Mỗi lý thuyết có những
thế mạnh riêng của mình trong dự báo hành vi.
Lý thuyết ủng hộ không đi sâu vào
nhu cầu của con người mà chỉ xét mối quan hệ giữa hành vi và kết quả của nó bằng
cách thay đổi hoặc sửa đổi hành vi trong công việc của nhân viên. Người lãnh đạo
có 4 cách sử dụng sự ủng hộ để sửa đổi hoặc định hình hành vi của nhân viên, đó
là ủng hộ tích cực, ủng hộ không tích cực,
trừng phạt và tiêu diệt.
Lý thuyết về sự kỳ vọng dựa trên
ý tưởng cho rằng con người sẽ nỗ lực làm việc khi biết rằng những nỗ lực này sẽ
mang lại kết quả như mình mong muốn. Ví dụ, chúng ta cố gắng làm việc vì tin rằng
mình sẽ được khen ngợi, từ đó, tổ chức sẽ khen thưởng như tăng lương, tiền thưởng
hay thăng tiến trong công việc… và sự khen thưởng này thỏa mãn nhu cầu của
chúng ta.
Lý thuyết công bằng cho rằng cá
nhân thường so sánh tỉ lệ giữa thành quả (O: outcome) của họ và những công sức
(I: Inputs) của họ bỏ ra để có được thành quả đó với những người khác, từ đó có
phản ứng để loại bỏ bất cứ sự bất công nào nếu có. Công sức ở đây được hiểu là
kỹ năng, sự cố gắng, kinh nghiệm, thời gian làm việc và những đóng góp khác cho
tổ chức. Nhân viên có thể so sánh mình với những người khác làm cùng công việc
trong cùng tổ chức hoặc ở tổ chức khác. Ngoài ra, họ cũng có thể so sánh công
việc hiện tại của mình với những công việc khác họ đã từng làm.
Hiện nay, công tác tưởng thưởng
cho nhân viên cũng khiến các nhà lãnh đạo quan tâm. Tiền bạc vật chất không còn
là mối quan tâm duy nhất của con người nữa. Đôi khi nhà lãnh đạo phải sáng tạo
ra các phần thưởng cũng như cách khích lệ và công nhận nhân viên để giữ chân họ.
Em đã tham khảo được các cách mà những ông chủ nổi tiếng đã áp dụng đối với
nhân viên của mình. Chủ tịch Seth Goldman của hãng Honest Tea đã xây dựng một hệ
thống đặc biệt nhằm công nhận thành tựu hay cổ vũ lòng trung thành của nhân
viên và tổng chi phí để xây dựng hệ thống đó bằng không. Trên mỗi sản phẩm của
Honest Tea đều có một mã vạch UPC gồm mười chữ số. Năm chữ số đầu là của công
ty. Năm chữ số tiếp theo để phân biệt các nhãn hiệu và hương vị của trà. Các
công ty đều xếp sản phẩm của họ theo một trật tự tuyến tính từ nhỏ đến lớn.
Nhưng đối với một công ty sáng tạo như Honest Tea, lối suy nghĩ phi tuyến tính
đã tạo ra sự khuyến khích và công nhận nhân viên. Khi một nhân viên của Honest
Tea đạt được thành tựu, công ty cho phép người đó được chọn mã UPC cho sản phẩm
tiếp theo. Các nhân viên xuất sắc này sử dụng ngày cưới, ngày sinh nhật hay những
con số may mắn của họ. Buổi giới thiệu sản phẩm mới trong nội bộ công ty là dịp
tôn vinh những người hoàn thành xuất sắc công việc. Một vị Giám đốc kinh doanh
của Honest Tea có người cha vừa mới qua đời. Cùng lúc phải chịu đựng nỗi mất
mát đau thương này, anh cũng là người chủ chốt trong quá trình đàm phán đặc
biệt phức tạp với một công ty lớn có tiếng tăm trong lĩnh vực bán lẻ. Mặc dù bị
sao nhãng nhưng anh vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó, không để cho giám đốc đó
biết, toàn bộ nhân viên hãng Honest Tea quyết định dành sản phẩm mới nhất để tưởng
nhớ cha anh. “Khi chúng tôi công bố mã sản phẩm mới nhất sẽ dành cho ngày sinh
của cha anh ấy, anh ấy đã không cầm được nước mắt” - Goldman cho biết. Còn một
câu chuyện thú vị hơn ở công ty Rackspace Managed Hosting. Graham Weston – đồng
sáng lập viên kiêm CEO của công ty này đã trao chìa khóa của chiếc xe BMW M3 của
mình cho nhân viên nào xuất sắc nhất dụng một tuần. Ông nói: “Nếu cho họ 200 USD
thì không có nhiều ý nghĩa, nhưng nếu được lái chiếc xe của tôi trong một tuần
thì chắc chắn họ sẽ không bao giờ quên.”
Một công cụ khác được xem là hiệu
quả mà các nhà lãnh đạo hay dùng là “trao quyền”. Cách tốt nhất để nhân viên
trung thành với công ty là ngay từ đầu cho họ biết rằng họ được toàn quyền chủ
động trong công việc của mình. Ai cũng muốn làm việc lâu dài cho một công ty mà
tại đó, anh ta có thể phát huy tiềm năng cao nhất của mình, và ở đâu duy trì được
quan điểm như vậy thì nhân viên ở đó không bao giờ nuôi ý định bỏ đi tìm chỗ
làm khác tốt hơn. Người lãnh đạo công ty nên thường xuyên trao đổi với nhân viên
về các phương pháp làm việc, mặc dù đây không phải vấn đề cần được quan tâm quá
nhiều. Quan trọng hơn hết là thành quả sau cùng – doanh thu, lợi nhuận. Thành
công cần được khen ngợi kịp thời và nhấn mạnh đó là thành tích của một số cá
nhân cụ thể. Cần làm cho mỗi nhân viên hiểu rằng, khả năng thăng tiến của anh
ta phụ thuộc vào những nỗ lực bản thân và chất lượng công việc mà anh ta thực
hiện.
Theo như em quan sát thì có một vấn
đề cũng xảy ra khá nhiều trong các nhóm sinh viên. Đó là nhiều bạn nhóm trưởng
cứ ôm đồm hết tất cả mọi việc, không dám để các thành viên khác làm vì sợ người
đó không đủ năng lực, không có trách nhiệm,… Vô tình các bạn nhóm trưởng quá tải
trong khi các thành viên khác thì không làm gì cả. Vậy các nhà lãnh đạo có cảm
giác lo sợ như vậy khi trao quyền không? Chắc chắn sẽ có nhiều nhà lãnh đạo sẽ
lo sợ khi trao quyền cho nhân viên. Đây là một điều không thể tránh khỏi, bởi
vì có khi trao quyền sẽ làm giảm sự ảnh hưởng của nhà lãnh đạo lên nhân viên, sợ
nhân viên lạm quyền và đôi lúc nhân viên tỏ ra vượt trội hơn so với nhà lãnh đạo.
Điều này làm giảm đi quyền lực của nhà lãnh đạo. Tuy nhiên, em nghĩ dù sao đối
với người có năng lực thì nên trao quyền cho họ. Một trong những nhiệm vụ của
nhà lãnh đạo là phát triển năng lực nhân viên, nếu vì sợ bị mất quyền mà không
để nhân viên tỏa sáng thì sẽ là một tổn hại lớn cho tổ chức. Trao quyền cũng có
ích cho nhà lãnh đạo, trao quyền giúp nhà lãnh đạo có thời gian nhiều hơn để tập
trung vào những việc quan trọng, hạn chế được áp lực và giúp nhân viên phát triển
nhiều kỹ năng hơn. Hơn nữa em nghĩ nếu nhà lãnh đạo thực hiện trao quyền hữu hiệu
thì việc mất quyền sẽ ít khi xảy ra. Để thực hiện trao quyền hữu hiệu, cần có 5
nhân tố: thông tin, kiến thức, sự thận trọng,
ý nghĩa và phần thưởng.
Nhiều tổ chức trao quyền cho nhân
viên nhưng theo những mức độ khác nhau. Có khi họ khuyến khích nhân viên đóng
góp ý kiến trong khi quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về nhà lãnh đạo. Ở những
nơi khác thì nhân viên được phép quyết định nhiều việc hơn. Nhà lãnh đạo phải
kiểm soát sau khi trao quyền mới có thể đảm bảo công việc được thực hiện đúng
tiến độ và hoàn thành tốt. Đầu tiên nhà lãnh đạo phải đánh giá mức độ mạo hiểm,
rủi ro khi trao quyền rồi mới quyết định có trao quyền hay không. Khi trao quyền
thì chỉ giao nhiệm vụ, không áp đặt phương pháp tiến hành công việc để cấp dưới
có thể tự chủ và học hỏi nhiều hơn. Nhà lãnh đạo cũng cần phải ngăn chặn việc
“trao quyền ngược” khi cấp dưới thiếu năng lực, thiếu tự tin hay ỷ lại vào
mình.
Các chương trình động viên có thể
áp dụng trong tổ chức là: cung cấp ý nghĩa của công việc, quyền sở hữu của nhân
viên, làm giàu công việc, chia sẻ lợi nhuận, trả lương theo năng lực, trả lương
theo thành tích, làm giàu công việc,… Vấn đề trả lương là một vấn đề mà nhiều
nhà lãnh đạo vẫn luôn tìm kiếm giải pháp tốt nhất cho tổ chức của mình. Không
nhất thiết phải cứng nhắc khi trả lương mà cần phải linh hoạt. Em nghĩ đối với
những nhân viên bình thường thì tổ chức nên trả lương theo mặt bằng chung của
thị trường. Còn đối với những nhân viên có năng lực cao, thì có thể trả theo đề
nghị của họ mà mình chấp nhận được. Khi trả lương cho nhân viên theo một quy định
cứng nhắc, công ty chỉ có thể mua được thời gian của họ. Nhưng nếu muốn nhân
viên làm việc nhiệt tình và mang lại lợi nhuận tối đa cho công ty, chúng ta không
cần mua thời gian, mà phải mua kết quả công việc của họ. Nhân viên cũng muốn nhận
được tiền thù lao vì những công việc nhất định, vì họ đem lại cho công ty những
lợi nhuận nhất định.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét