Thứ Năm, 15 tháng 10, 2015

[Lãnh đạo] Bài nhận thức số 6

Ngoài hai khía cạnh tạo nên thành công cho nhà lãnh đạo là trí tuệ và trái tim, còn một nhân tố thứ ba không kém phần quan trọng là đạo đức nhà lãnh đạo. Đạo đức rất dễ bị lung lay, lương tâm người ta thường đối diện với những tình huống dễ bị cám dỗ bởi lợi nhuận. Sau khi tìm hiểu về hàng loạt các vụ bê bối được đề cập trong phần đầu của chương, em đã nhận ra một điều, ở vị trí quyền lực cao, chịu trách nhiệm càng lớn thì nhà lãnh đạo càng có nhiều cám dỗ hơn. Trong cuốn Tốc độ của niềm tin (Stephen M. R. Covey), tác giả cũng đề cập đến các vụ bê bối đạo đức mà tác hại của chúng là vô cùng to lớn. Chúng không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân mà còn mất đi niềm tin của nhân viên và công chúng. Người lao động trở nên thận trọng hơn trong việc lựa chọn công ty, nhân viên không hoàn toàn tin tưởng vào lãnh đạo và khách hàng đắn đo trong việc đầu tư. Một  khi mất đi niềm tin thì nó sẽ lan tỏa nhanh chóng không cưỡng lại được, tất cả nhuệ khí, tinh thần, sự nỗ lực, nhiệt huyết và hành động của nhân viên sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Do đó, tổ chức cần những nhà lãnh đạo có đạo đức, chiếm được lòng tin của mọi người. Tuy nhiên, xung quanh họ luôn đầy rẫy những cám dỗ, đặc biệt nhà lãnh đạo ở vị trí quyền lực càng cao thì càng dễ bị cám dỗ, vậy họ càng phải có nghị lực, lòng can đảm cao và lập trường vững vàng để không bị lung lay, mê hoặc.
Nguyên nhân của những sai lầm đạo đức có thể là do sự ích kỷ của nhà lãnh đạo. Không hiếm người tự cao tự đại, cho rằng mọi thành công đều thuộc về mình, và đổ lỗi cho người khác khi thất bại. Bởi vì con người thường hay suy diễn đồng biến. Đối với bản thân, kết quả tốt là do chủ thể, tức là họ sẽ nhận sự thành công là của mình, còn kết quả xấu là do đối tượng và hoàn cảnh, do đó họ sẽ đổ lỗi cho người khác và rũ bỏ mọi trách nhiệm. Bởi vậy, một nhà lãnh đạo ích kỷ và có lòng tham thường dễ đi vào con đường phi đạo đức. Em đã đọc một bài luận văn về phong cách lãnh đạo của Steve Jobs, bài viết có đề cập đến ông như là một ví dụ về sự vô đạo đức. Ông đã lấy cắp ý tưởng của nhân viên và trình bày trước hội đồng như thể đó là của ông, trong khi người nhân viên là chủ nhân chân chính của nó lúc trình bày ý tưởng này với ông thì bị ông chỉ trích thậm tệ. Đây minh chứng rõ ràng nhất của việc sai lầm đạo đức của các nhà lãnh đạo.
Ông Lý Quang Diệu, thủ tướng của đất nước phát triển nhất Đông Nam Á Singapore, được các nhà nghiên cứu quản trị và các nhà báo nổi tiếng nhận định rằng, ông là một nhà lãnh đạo có tiêu chuẩn đạo đức rất cao. “Điều ông Lý Quang Diệu tin tưởng là tầm quan trọng của tự do, cuộc sống ấm no và hòa bình. Đó là nền tảng của đất nước Singapore hiện nay.” Ông tin tưởng và mạnh mẽ làm theo những nguyên tắc đạo đức đã đề ra, và kết quả là một đất nước Singapore phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Ông đã thực hiện một chính sách vô cùng hữu hiệu để có thể bài trừ nạn tham nhũng tại đất nước này. Đó là trả lương cao cho cán bộ công chức nhà nước, vì khi họ có lương cao, được thỏa mãn nhu cầu thì họ sẽ làm việc chăm chỉ, không cần nghĩ đến việc tham nhũng nữa, và đồng thời thu hút được nhiều nhân tài phục vụ cho đất nước. Không những thế, ông còn đề ra các quy định pháp luật chặt chẽ và nghiêm khắc. Nhờ đó, tỉ lệ tội phạm ở đất nước Singapore rất thấp. Nhìn lại đất nước mình, nhiều thực trạng xã hội đang diễn ra cho thấy sự suy thoái đạo đức của người Việt Nam, không chỉ là cán bộ Đảng viên mà còn có thanh niên, thế hệ trẻ. Tham nhũng, tội ác lan tràn khắp nơi. Không chỉ vậy, cách ứng xử, giao tiếp, ăn mặc của thế hệ trẻ hiện nay đang làm xấu đi thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến nền văn hóa của người Việt Nam xây dựng bao đời nay. Em đã đọc một bài nhận xét của một du khách nước ngoài, ông ta đặt tên cho tiêu đề của nó là “Lý do tôi không bao giờ quay lại Việt Nam lần nữa”. (http://www.nomadicmatt.com/travel-blogs/why-ill-never-return-to-vietnam/?hc_location=ufi). Trong đó, ông có giải thích những lý do, những cách ứng xử, những điều bất công mà ông nhận được từ một số người dân địa phương, và ông đã bị sốc nặng với lối ứng xử vô văn hóa và vô đạo đức của họ. Bởi vậy, chính sự vô đạo đức đã góp phần làm xấu hình ảnh người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, rồi từ đó, biết bao hệ lụy kéo theo. Những nhà lãnh đạo tối cao của đất nước phải làm sao nghĩ ra những biện pháp chấm dứt những tình trạng như thế, thì mới có thể dẫn đường cho Việt Nam phát triển xa hơn.
Em cho rằng đạo đức không chỉ bó hẹp trong việc đem lại lợi ích cho tổ chức, cổ đông, nhân viên, mà còn phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các bên hữu quan. Trong kinh doanh, tổ chức không chỉ phải có việc kiếm tiền để phục vụ lợi ích cho tổ chức, mà còn phải tính đến chuyện góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ nền văn hóa của đất nước, bảo vệ trái đất, thân thiện với môi trường,… Ngày nay, nhà lãnh đạo giỏi phải hoàn thành cùng lúc những trách nhiệm đó, chứ không phải chỉ đơn giản là đem lại lợi ích cho tổ chức và nhân viên của mình. Và những hành vi phi đạo đức cho dù là vì bất cứ lý do nào đi nữa cũng là hành vi sai trái, đáng bị lên án.
Để trở thành nhà lãnh đạo hợp đạo đức thì những người lãnh đạo phải biết phân biệt giữa cái đúng và cái sai, tìm kiếm sự công bằng, trung thực, những điều tốt đẹp để biến chúng thành những hành động cụ thể. Ba cấp độ của quá trình phát triển đạo đức bao gồm: tiền lệ, quy ước, nguyên tắc. Ở cấp độ “tiền lệ”, các cá nhân đặt mình vào vị trí trung tâm và chỉ quan tâm đến việc tưởng thưởng, tránh bị trừng phạt. Cấp độ “quy ước”, họ tuân theo những quy tắc, giá trị, tiêu chuẩn của tổ chức một cách vô điều kiện. “Nguyên tắc” là mức mà ở đó họ tuân thủ những nguyên tắc nội tại mà đã được công nhận một cách rộng rãi. Việc phát triển đạo đức của con người đi từ mức độ “tiền lệ” đến “quy ước” và cuối cùng là “nguyên tắc”. Hầu hết những người bình thường đều ở mức độ thứ 2 của mô hình phát triển. Em tự nhận thấy mình cũng thuộc mức độ thứ 2. Vì đôi khi, có những phút yếu lòng mà em không dám hành động theo những nguyên tắc của mình, bỏ qua đạo đức. Những lần nói dối ba mẹ, trốn học, hay mải mê chơi bời với bạn bè,… đều là những lúc đấu tranh nội tâm dữ dội. Nhưng sau đó, phần đúng luôn thua cuộc. Tuy nhiên, em cũng ý thức được trách nhiệm của mình, nên không trượt dài trên những sai lầm, bởi vì em biết nếu không thức tỉnh chính mình thì những sai lầm đó dần trở thành thói quen, rồi dẫn đến những sai lầm đạo đức nghiêm trọng khác. Nói đến đạo đức của nhà lãnh đạo, Việt Nam luôn có thể tự hào vì một tấm gương chói lóa, đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Bác, đạo đức được phát triển lên đến mức độ cao nhất, là nguyên tắc bất di bất dịch của Người. Con người của Bác mỗi một giây một phút đều suy nghĩ cho dân cho nước. Một người luôn hy sinh lợi ích của chính mình vì đại cục. Có mấy ai trên thế giới có được tấm lòng đạo đức sáng ngời như Bác.
Từ cấp độ cao nhất là nguyên tắc, nhà lãnh đạo có thể chuyển đổi mối quan hệ lãnh đạo – phục tùng. Theo Greenleaf, một nhà lãnh đạo phục vụ có đặc điểm sau: đặt việc phục vụ người khác lên trên sở thích cá nhân, biết lắng nghe, thể hiện sự tin cậy, bảo vệ người khác khỏi sự tổn thương. Qua 4 giai đoạn: Kiểm soát, Tham gia, Trao quyền, Phục vụ, nhà lãnh đạo đảo ngược vai trò, trong đó nhà lãnh đạo hy sinh và phục vụ cho nhu cầu của người khác, thúc đẩy và mang đến cho họ cơ hội phát triển. Em cảm thấy ít ai có thể làm được điều này, bởi vì một khi đã là nhà lãnh đạo, họ có vị trí quyền lực cao hơn người khác, cho nên họ khó có thể vứt bỏ lòng tự tôn của mình để phục vụ người khác. Thậm chí họ cho rằng đó là điều điên rồ. Nhưng những ai đã đọc Kinh Thánh đều biết rằng, Chúa Giê-su là một nhà lãnh đạo phục vụ hoàn hảo nhất trên thế giới. Trong Kinh Thánh có đoạn miêu tả Chúa Giê-su rửa chân cho mười hai môn đệ, họ vô cùng ngạc nhiên và tự hỏi vì sao Thầy lại làm như vậy, Thầy có ý gì… Và Chúa Giê-su đã giải đáp cho họ: “Ai muốn làm người đứng đầu, hãy bắt đầu bằng công việc của kẻ nhỏ nhất.”
Nhưng để trở thành một nhà lãnh đạo có đạo đức là một điều không hề đơn giản vì sự ích kỉ, lòng tham, những nhà lãnh đạo cấp cao đôi khi chạy theo mục đích cá nhân mà coi thường luật lệ, những chuẩn mực đạo đức mà tổ chức đã đề ra. Do đó, đòi hỏi nhà lãnh đạo phải có lòng can đảm. Can đảm dám nhận trách nhiệm về mình. Không phải lãnh đạo là một người luôn luôn đúng, đôi khi họ cũng mắc phải những sai lầm. Nhưng điều quan trọng là phải biết dám chấp nhận thất bại và sai lầm hơn là đỗ lỗi cho người khác. Can đảm đồng nghĩa với sự bất tuân theo lề thói. Một nhà lãnh đạo hiện đại là phải biết linh động giải quyết công việc theo tình huống chứ không phải luôn luôn tuân theo lề thói cũ, có thể khi đưa ra quyết định ban đầu họ sẽ gặp nhiều sự phản kháng nhưng phải biết chấp nhận rủi ro. Can đảm là biết vượt qua giới hạn an toàn. Khi đưa ra một quyết định nào đó, có thể nó sẽ thay đổi cả cuộc đời nhưng phải biết chấp nhận dấn thân vì cơ hội không đến lần thứ hai, phải biết nắm bắt cơ hội. Như dân gian thường hay nói “có gan làm giàu”, “được ăn cả ngã về không”.
Trong cuộc khảo sát văn hóa của các nước trên thế giới, Hofstede đã đưa ra một tình huống nhằm đo lường tính cách con người. Một người bạn của bạn lái xe với tốc độ cao, đâm vào một người, ở đó không có nhân chứng, không có ai ngoài bạn. Người bị nạn kiện anh ta. Nếu bạn là nhân chứng duy nhất, và lời nói của bạn sẽ quyết định bạn của bạn có vô tội hay không, thì bạn sẽ bảo vệ bạn của bạn hay nói ra sự thật? Kết quả của cuộc nghiên cứu cho thấy, 95% người Mỹ chọn cách nói thật, còn đối với người châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản thì tỉ lệ này thấp hơn một chút. Qua câu chuyện này, em nhận thấy can đảm và đạo đức bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa. Một nền văn hóa có tính phổ biến, thì họ sẽ chọn cách nói thật, còn các nước có nền văn hóa đặc trưng thì họ sẽ bảo vệ thứ mà mình muốn bảo vệ, mặc kệ sự thật. Một số người lựa chọn bảo vệ bạn mình, có phải họ là những người không có can đảm để nói lên sự thật?
Vậy làm thế nào để khám phá lòng dũng cảm của một nhà lãnh đạo? Điều đầu tiên là cam kết vì những mục tiêu cao cả. “Sự can đảm vươn tới mục tiêu của nhà lãnh đạo tài ba xuất phát từ niềm đam mê, không phải từ địa vị.” Do đó khi có mục tiêu, có viễn cảnh về bức tranh tươi đẹp của tổ chức, lòng dũng cảm sẽ xuất hiện đấu tranh cho niềm tin và dẫn dắt hành vi nhà lãnh đạo. Một cách để khám phá lòng can đảm của bản thân là khai thác sức mạnh của sự giận dữ và thất vọng. Em nghĩ, sự giận dữ và thất vọng được phân thành hai loại, một loại được gây nên bởi mâu thuẫn trong công việc và loại còn lại gây nên bởi mâu thuẫn cá nhân. Nếu muốn khai thác sức mạnh từ sự giận dữ thì phải tìm hiểu nguyên nhân hình thành nó, và xác định xem nó thuộc loại nào. Nếu là sự giận dữ và thất vọng bởi xung đột trong công việc thì có thể khai thác, nhằm tạo ra nhiều ý tưởng, nhiều hướng đi mới, phát triển tổ chức. Và nên giảm thiểu đến mức thấp nhất sự giận dữ và thất vọng do xung đột cá nhân, bởi vì nó sẽ gây ra hậu quả tiêu cực. Thứ ba là sẵn sàng chấp nhận thất bại. Vì trong đời người, ai cũng có lần phải đối mặt với những thất bại. Những lúc như thế, chúng ta hãy nhớ đến lời của một danh nhân người Mĩ – tổng thống Abraham Lincoln: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào.” Có thể hiểu một cách khái quát là không nên nhìn vào kết quả của thất bại mà hãy biết đứng lên sau những thất bại đó.

Một câu hỏi được đặt ra, một nhà lãnh đạo độc đoán mà có lòng can đảm cao thì sẽ xảy ra chuyện gì? Liệu người đó sẽ tự mình quyết định tất cả, tự mình liều lĩnh, khiến tổ chức lâm vào tình trạng rủi ro “ngàn cân treo sợi tóc” không? Em tin tưởng rằng, nếu nhà lãnh đạo vừa độc đoán vừa can đảm thì cũng chẳng sao, vì họ tin vào chính mình, biết mình có thể đi đến đâu và dám thử thách chính mình. Bởi vậy có một nhà lãnh đạo như thế thì cũng chẳng có gì không tốt cả. Em tin rằng thành công chỉ đến với những người biết chấp nhận rủi ro và dũng cảm đương đầu với những thử thách.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

[Lãnh đạo] Bài nhận thức số 10

Con người là một phần tử trong tổ chức, mà không ai là hoàn hảo cả. Khi đối mặt với những nhiệm vụ to lớn, khó khăn, họ cần phải liên kết l...